Cuốn sách “Nguyễn Huy Tưởng trước khi là nhà văn” do Nguyễn Huy Thắng biên soạn đã khám phá hành trình theo đuổi đam mê không hề suôn sẻ nhưng đặc biệt kiên trì của Nguyễn Huy Tưởng – nhà văn của những khúc sử thi hào hùng trên văn đàn Việt Nam.
Nguyễn Huy Thắng là con thứ năm và là con trai duy nhất của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, đồng thời cũng là một trong những nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Tưởng với lòng nhiệt thành, tâm huyết, và yêu thương nhất.
Tự truyện – nhật ký và Hồi ức người thân.
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học nước nhà những tác phẩm lớn mang hơi thở lịch sử truyền thống đầy bề thế, tráng lệ và đậm chất bi thương hào hùng, tiêu biểu phải kể đến: “Đêm hội Long Trì”, “Vũ Như Tô”, “Sống mãi với thủ đô”, “Lũy hoa”, “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”… Là một nhà văn và nhà viết kịch đa tài, Nguyễn Huy Tưởng thử nghiệm và ghi dấu ấn trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, kịch nói, truyện ký, truyện phim, truyện thiếu nhi…
Tuy nhiên, nếu so sánh với các văn sĩ đương thời, một Chế Lan Viên làm rúng động thi đàn với “Điêu tàn” khi vừa mới 17 tuổi, một Nam Cao có kiệt tác “Chí Phèo” ở tuổi 24, một Vũ Trọng Phụng gây tiếng vang lớn với tam kiệt tiểu thuyết “Số đỏ” – “Giông tố” – “Vỡ đê” năm 24 tuổi và kịp để lại một gia tài văn chương đồ sộ trước khi qua đời ở tuổi chớm 27… Thì Nguyễn Huy Tưởng, chỉ khi bước sang tuổi tam thập nhi lập mới bắt đầu khẳng định được ngòi bút của mình, bằng tiểu thuyết “Đêm hội Long Trì” năm 1943. Không phải Nguyễn Huy Tưởng tìm đến với văn chương muộn, mà giống như mỗi bông hoa có một mùa khoe sắc hương riêng, ngòi bút của ông cần một quá trình dài hơn các bạn văn khác một chút để đạt được độ “chín”.
Cuốn sách “Nguyễn Huy Tưởng trước khi là nhà văn” hé lộ cho bạn đọc hành trình vun vén đầy cố gắng và bền bỉ để đạt được độ “chín” ấy. Ấn phẩm ra mắt năm 2009, được biên soạn thành hai phần: Tự truyện – nhật ký và Hồi ức người thân.
Lịch sử và cảm hứng yêu nước là kim chỉ nam.
Tự truyện “Cái đời tôi” là di cảo sớm nhất của Nguyễn Huy Tưởng, được viết năm tác giả 18 tuổi, ghi lại ký ức về làng quê Dục Tú, về thày mẹ, anh chị em và bản thân nhà văn từ thuở lọt lòng được nghe mẹ kể lại đến khi biết nhớ. Những kỷ niệm ngây ngô, chân thật, như vì mê bộ quần áo của anh họ quá rồi thó ngay chạy về nhà mà trống ngực đập liên hồi, nghe sao vừa thương vừa buồn cười lại vừa “xấu hổ”. “Cái đời tôi” đơn thuần là trần thuật và miêu tả cái đời tôi nó thế nhưng đã thể hiện được ngòi bút quan sát đầy tinh tế tỉ mẩn của Nguyễn Huy Tưởng ngay từ tác phẩm đầu tay, đồng thời thấy rõ được cái tình cảm dạt dào mà nhà văn dành cho quê hương và gia đình, nhờ có độ lùi thời gian để nhìn lại mà đau lòng cho một tuổi thơ đầy mất mát khi phải chứng kiến quá nhiều cảnh ly biệt chia cách âm dương với người thân.
Nhật ký “Những năm ba mươi” là ghi chép hằng ngày của Nguyễn Huy Tưởng từ thời còn là học trò thành chung (học cấp ba), đến lúc trở lại quê nhà, cặm cụi viết những truyện đầu tiên, làm gia sư, truyền bá chữ quốc ngữ… Những trang nhật ký này có đoạn hồi tưởng về tuổi thơ đã tiết lộ rằng nhà văn có niềm ham thích nghe chuyện lịch sử từ lúc còn bé xíu chưa biết mặt chữ, ấy thế mà cứ nằng nặc đòi anh trai mượn sách Đại vương Trần Hưng Đạo về đọc cho nghe, dẫu chưa biết lý tưởng cao xa gì nhưng đã có những phút cảm động và nức nở đầy chân thật, cái say sưa thuở nhỏ ấy là nghe kể chuyện bậc cứu quốc anh hùng. Những dòng ghi chép cũng cho thấy Nguyễn Huy Tưởng đã sớm xác định được mục đích cuộc đời mình từ năm 18 tuổi là làm văn sĩ, với một niềm đam mê văn chương vô cùng to lớn song song với niềm đam mê lịch sử, và nỗi khát khao được cống hiến cho đất nước, cho nhân dân.
“Nhật ký tư tưởng” ghi lại những ý tưởng cô đọng và đúc kết của Nguyễn Huy Tưởng về văn chương và phẩm hạnh của người viết văn, đây là phần ghi chép đặc biệt mà theo tác giả là “chỉ chép lấy những điều có thể đổi ta thành một người đạo đức và một người văn sĩ mà thôi”.
Phần “Hồi ức người thân” càng tô đậm rõ nét chân dung một Nguyễn Huy Tưởng thuở thiếu thời: người hơi cao, ít nói, hay lẳng lặng đọc sách mê mải đến quên cả ăn, lúc thường nói chuyện không quá hoạt bát nhưng khi kể chuyện cổ tích và lịch sử cho các cháu nghe lại cực kỳ hấp dẫn. Người thanh niên ấy đã sớm tham gia phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên, trưởng thành cùng tác phong nhanh nhẹn hơn trong sự thôi thúc của thời cuộc, từng bị mật thám lục soát điều tra và buộc phải thôi học một năm… Bên trong con người trầm lặng ấy là một tâm hồn luôn trăn trở, làm thế nào để đóng góp sức mình cho nhân dân khi mà đất nước còn lầm than dưới ách đô hộ của thực dân phong kiến. Và, lòng yêu nước đã dẫn lối cho Nguyễn Huy Tưởng trong cuộc sống và trong cả văn chương.
Xuyên suốt những dòng tự truyện, những trang nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng trước khi là nhà văn và những dòng hồi ức từ người thân tác giả, lịch sử và cảm hứng yêu nước đóng vai trò là kim chỉ nam, là ngọn hải đăng trong sự nghiệp cũng như trong cả cuộc đời của tác giả. Mang theo niềm yêu thích lịch sử từ tấm bé, cậu học trò Nguyễn Huy Tưởng đã hào hứng tìm hiểu và khai thác nguồn tư liệu phong phú này, đồng thời trao dồi Pháp văn và Hán văn, để đến khi trưởng thành và ngòi bút đạt được độ “chín”, ông trở thành nhà chép sử bằng văn chương thông qua những câu chuyện lịch sử, những nhân vật lịch sử, để ca ngợi chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, sức sống bất khuất và bất diệt của dân tộc ta.
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Lão Tử nói: “Thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ”, nghĩa là hành trình vạn dặm bắt đầu từ một bước chân. Điều may mắn là Nguyễn Huy Tưởng đã sớm xác định được điểm đích để cất bước chân đầu tiên trên cuộc hành trình, dẫu hành trình của ông đầy gập ghềnh trắc trở.
Và một điều may mắn hơn, là nhà văn đã bắt đầu viết nhật ký từ năm 18 tuổi, một cách cần mẫn, ghi lại trạng thái tinh thần, tình cảm và các diễn biến trong cuộc đời trong đó có tiến trình đến với văn chương và cách mạng. Nhờ đó mà hậu thế có cơ hội được ngắm nhìn tấm bản đồ văn học của Nguyễn Huy Tưởng với những chặng đường đầy ngoằn ngoèo khúc khuỷu, phần nào hiểu được rằng để có những tác phẩm kinh điển góp thêm phần bề thế tráng lệ cho văn đàn nước nhà là kết quả của việc ngồi rách đệm cói, mài mực thủng nghiên của nhà văn.
Có công mài sắt có ngày nên kim. Một câu tục ngữ cũ nhưng vàng. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng là một tấm gương tiêu biểu cho ý chí kiên trì bền bỉ này.
“Tư tưởng của tôi tức là đồ chơi của tôi. Tôi tự làm những đồ chơi ấy: Tôi hẵng cứ làm cho thật nhiều, rồi lúc nhớn lên, tôi biết suy xét nghĩ ngợi, tôi sẽ gọt đẽo thành đồ chơi có giá trị.” – Trích “Nhật ký tư tưởng” năm 1932 của Nguyễn Huy Tưởng.