Truyện ngắn “Mùa lạc” của nhà văn Nguyễn Khải là khúc hoan ca trong mùa thu hoạch, cũng là cuộc vận động vạn vật hồi sinh trên vùng đất vừa đi qua chiến tranh, trên quê hương đang xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Đọc thêm:
- Sống mãi với thủ đô – Dấu chấm lửng đầy tiếc nuối trong văn nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng.
- Mưa Nhã Nam – Ngắm mưa kể chuyện Hùm thiêng Yên Thế!
- Đi Trốn – Nỗi buồn chiến tranh.
- Chiếc Lược Ngà – Một truyện ngắn phát ra âm thanh.
Sườn lịch sử.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, với âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã buộc cả dân tộc ta phải tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ thống nhất đất nước.
“Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ
Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa.”
Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, Vĩ tuyến 17 là những cái tên quen thuộc đã đi vào lịch sử, trở thành biểu tượng của nỗi đau chia cắt và khát vọng thống nhất của cả dân tộc Việt Nam. Lúc bấy giờ, miền Bắc hăng hái xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống mới, xây dựng hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam, tiếp tục sự nghiệp đấu tranh, hướng tới giải phóng thống nhất nước nhà.
Mùa xuân năm 1958 – xuân mở đầu kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế – văn hóa của miền Bắc xã hội chủ nghĩa (1958 – 1960). Giữa năm 1958, Nông trường Quân đội Điện Biên được thành lập trực thuộc Cục Nông – Binh, Bộ Quốc phòng. Thực hiện cuộc vận động “Lấy nông trường làm gia đình, lấy Tây Bắc làm quê hương”, cán bộ chiến sĩ và thanh niên xung phong nông trường vận động người thân đi xây dựng kinh tế Tây Bắc.
Trong bối cảnh lịch sử đầy sinh động đó, năm 1960, truyện ngắn “Mùa lạc” ra mắt độc giả, thể hiện cái nhìn sắc bén của Nguyễn Khải đối với thời cuộc, tác phẩm đề cập đến vấn đề vượt lên số phận, khám phá cuộc sống và khẳng định ý nghĩa của cuộc sống mới của xã hội chủ nghĩa trong việc làm thay đổi số phận con người.
Xuân về, “Đào” nở, vạn vật hồi sinh.
Nội dung “Mùa lạc” chủ yếu xoay quanh hai nhân vật Đào và Huân. Cả hai hiển nhiên không được se duyên ở kết cục như một cuốn tiểu thuyết ngôn tình ba xu. Họ đại diện cho hai tầng lớp khác nhau, mang những nỗi vất vả gian truân không giống nhau, lại gặp nhau ở nông trường Điện Biên, cùng nhau xây dựng cuộc sống mới, và tự vượt qua ranh giới của chính mình để hướng tới hạnh phúc riêng.
Đào, một người phụ nữ ở cái tuổi cuối những mùa hăm, góa bụa, không còn gia đình, không còn xuân sắc, một mình tha hương, gồng gánh mưu sinh, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường. Nhưng rồi chim bay mỏi cánh, ngựa chạy chùn chân, Đào chọn nông trường Điện Biên làm điểm dừng để thôi lang bạt và quên đi cuộc đời đã qua. Bắt đầu bằng tâm thế táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, hờn giận cho thân mình… thế nhưng nhịp sống căng tràn ở nông trường cùng những mối quan hệ đồng bào đồng chí, có cả duyên tơ hồng, đã dần dần thay đổi Đào, khiến chị tìm được quê hương thứ hai, khiến tim chị hân hoan như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn. Hạnh phúc đã mất đi, chị lại tìm được nơi mảnh đất mà chiến tranh đã từng xảy ra ác liệt.
Huân, một người chiến sĩ từng tham gia chiến tranh trên chính chiến trường Điện Biên. Thân thể anh đã bươn qua những mũi gai thép đâm, những vệt nứa cứa, những chấm đen ở lỗ chân lông của bệnh sốt rét rừng, màu xanh của thiếu ăn và bệnh tật, cùng những vết thương lòng khi đồng đội hy sinh. Bây giờ đây cũng chính trên mảnh đất ấy, hưởng ứng lời kêu gọi của tổ quốc, anh lao động hăng say, và ngạc nhiên nhận ra tất cả hoang tàn đã được phủ xanh bởi màu xanh của lương thực, màu xanh của sự sống, cả thân hình anh cũng được thanh lọc bởi những dòng máu mới, xóa dần đi dấu vết chiến tranh.
Cách đặt tên của tác giả ít nhiều đều mang ý nghĩa biểu trưng. Đào là tên nhân vật chính, “Đào” cũng tượng trưng cho mùa xuân. Xuân về, “Đào” nở, vạn vật hồi sinh. Cái tên Huân cũng xem chừng ý vị, “Huân” nghĩa là công lao, nhân vật Huân trong tác phẩm là một người chiến sĩ bước ra từ chiến tranh. Có thể nói, bên cạnh miêu tả xuất sắc diễn biến tâm lý nhân vật, thì việc lựa chọn từ ngữ, cũng như lựa chọn tên nhân vật của nhà văn Nguyễn Khải cũng hết sức tinh tế và được dụng tâm.
Phượng hoàng tái sinh.
Điện Biên, vùng đất từng bị tàn phá bởi chiến tranh, đầy rẫy dây thép gai, mìn, vỏ đạn đại bác, nhừ nát vì những hố bom, những giao thông hào, đây đó còn có những đoạn xương trắng… mà nay đã đổi thay với rực rỡ những sắc màu căng tràn nhựa sống. Sự thay đổi đó có thể bước đầu còn nhiều khó khăn, tưởng chừng như bất lực, nhưng kiên trì và đoàn kết đã tạo nên sức mạnh phi thường.
“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy…”
Sự lột xác theo chiều hướng đi lên của vùng đất Điện Biên, là một hình ảnh cụ thể hóa sự hồi sinh sau bao hệ lụy chiến tranh, là một điềm lành được hữu hình hóa cho tương lai Việt Nam khi Bắc – Nam chung về một mối, rằng dẫu có bao nhiêu vất vả hy sinh, bao nhiêu mất mát đau thương thì ngày đất nước thống nhất – người người sum vầy, nhà nhà đoàn tụ, và sẽ lại cùng nhau xây dựng đất của ta và nước của ta, một đất nước hoàn toàn độc lập tự do. Phượng hoàng rồi sẽ tái sinh từ đống tro tàn.
Tôn vinh xã hội chủ nghĩa.
Mùa lạc là mùa thu hoạch lạc trên nông trường Điện Biên, cũng là hình ảnh hăng say lao động của quân và dân nơi đây, là niềm hạnh phúc được tham gia xây dựng cuộc sống mới, là cơ hội cho những số phận khác nhau vượt qua ranh giới của bản thân để tìm đến cái đích của hạnh phúc.
Cuộc vận động vạn vật hồi sinh trong tác phẩm thể hiện sự tuyệt vời của xã hội chủ nghĩa đã mang đến cho con người quyền yêu, quyền mưu cầu hạnh phúc, những quyền cơ bản đã từng bị tước đoạt bởi chiến tranh và đô hộ, những quyền giản dị nhưng rất mực cần thiết với mỗi người.
“Mùa lạc” của Nguyễn Khải là mùa vui, mùa hạnh phúc, mùa hồi sinh trong cuộc sống mới, trong sự biết ơn xã hội chủ nghĩa, Cách mạng, và Bác Hồ.
Hiểu thêm về nhà văn Nguyễn Khải.
Nguyễn Khải (03/12/1930 – 15/01/2008) tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, nguyên quán ở thành phố Nam Định.
Cách mạng tháng Tám bùng lên khi ông đang học trung học. Kháng chiến chống Pháp, ông gia nhập đội tự vệ, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu sáng tác trong những năm 1950, gây được tiếng vang từ tiểu thuyết “Xung đột” (phần I năm 1959, phần II năm 1962).
Đất nước thống nhất, Nguyễn Khải chuyển vào sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Ông rời quân đội năm 1988 với quân hàm đại tá, để về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VII.
Nguyễn Khải sáng tác đa thể loại, gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch… hướng tới chủ đề cũng khá phong phú, về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội – chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống.
Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo.
Năm 2000, Nguyễn Khải được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II. Ông cũng từng nhận giải thưởng Văn học Lê Thanh Nghị (Liên khu III, 1951); Giải thưởng Văn nghệ Việt Nam (1951 – 1952) với tiểu thuyết “Xây dựng”; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1982) với tiểu thuyết “Gặp gỡ cuối năm”.
Chiến sĩ, nhà văn Nguyễn Khải là một trong những gương mặt nổi bật trên văn đàn Việt Nam của thế hệ những cây bút trưởng thành sau cách mạng tháng Tám.